Từ tiếng La-tinh silex, silicon, đá lửa
Năm 1800, Sir Humphry Davy cho rằng silica là một hợp chất chứ không phải là một nguyên tố; nhưng vào năm 1811, Gay Lussac và Louis Jacques Thénard có lẽ đã điều chế được silic vô định hình không tinh khiết bằng cách đun nóng kali với silic tetraflorua.
Năm 1824, Jöns Jakob Berzelius đã điều chế silic vô định hình bằng phương pháp chung tương tự.
Năm 1854, Henri Deville lần đầu tiên điều chế được silic tinh thể, dạng thù hình thứ hai của nguyên tố này.
Silic cũng có tính chất bất thường là nó nở ra khi đóng băng
Trạng thái vật chất
Rắn
Mật độ
2,3296 g/cm3
Nhiệt độ nóng chảy
1687,15 K | 1414 °C | 2577,2 °F
Nhiệt độ sôi
3538,15 K | 3265 °C | 5909 °F
Nhiệt lượng nóng chảy
50,2 kJ/mol
Nhiệt bay hơi
359 kJ/mol
Nhiệt dung
0,705 J/g·K
Hàm lượng trong vỏ trái đất
27%
Hàm lượng trong vũ trụ
0,07%
Bán kính nguyên tử
111 pm
Bán kính cộng hoá trị
111 pm
Độ âm điện
1,9 (Thang Pauling)
Năng lượng ion hóa
8,1517 eV
Nguyên tử khối
12,1 cm3/mol
Độ dẫn nhiệt
1,48 W/cm·K
Trạng thái ôxy hóa
-4, -3, -2, -1, 1, 2, 3, 4
Dưới dạng cát và đất sét, nó được dùng để làm bê tông và gạch; nó là vật liệu chịu lửa hữu ích cho công việc ở nhiệt độ cao và dưới dạng silicat, nó được dùng để làm men, đồ gốm, v.v.
Silica, dưới dạng cát, là thành phần chính của thủy tinh.
Chip silicon là cơ sở của điện tử và máy tính hiện đại.
Silic cacbua, thường được gọi là carborundum, được sử dụng trong chất mài mòn.
Nếu hít phải bụi silica/silicat mịn, nó có thể gây ra các vấn đề hô hấp mãn tính