Được biết đến với người xưa; được đề cập đến trong Sáng Thế Ký như là lưu huỳnh
Đến thế kỷ thứ 3, người Trung Quốc phát hiện ra rằng lưu huỳnh có thể được chiết xuất từ pirit.
Các nhà giả kim thuật Ấn Độ đã viết rất nhiều về việc sử dụng lưu huỳnh trong các hoạt động giả kim thuật với thủy ngân, từ thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên trở đi.
Năm 1777, Antoine Lavoisier đã giúp thuyết phục cộng đồng khoa học rằng lưu huỳnh là một nguyên tố, không phải là hợp chất.
Penicillin là một loại kháng sinh tự nhiên có nguồn gốc từ lưu huỳnh
Trạng thái vật chất
Rắn
Mật độ
2,067 g/cm3
Nhiệt độ nóng chảy
388,36 K | 115,21 °C | 239,38 °F
Nhiệt độ sôi
717,8 K | 444,65 °C | 832,37 °F
Nhiệt lượng nóng chảy
1,73 kJ/mol
Nhiệt bay hơi
9,8 kJ/mol
Nhiệt dung
0,71 J/g·K
Hàm lượng trong vỏ trái đất
0,042%
Hàm lượng trong vũ trụ
0,05%
Công dụng thương mại chính của lưu huỳnh là chất phản ứng trong sản xuất axit sunfuric.
Lưu huỳnh là thành phần của thuốc súng đen và được sử dụng trong quá trình lưu hóa cao su tự nhiên và thuốc diệt nấm.
Lưu huỳnh được dùng để sản xuất giấy sunfit và các loại giấy khác, để xông hơi và tẩy trắng trái cây sấy khô.
Lưu huỳnh cũng được sử dụng rộng rãi trong sản xuất phân bón phosphat.
Lưu huỳnh nguyên tố được coi là có độc tính thấp