Từ La-tinh cho thiếc là stannum
Thiếc lần đầu tiên được nấu chảy kết hợp với đồng vào khoảng năm 3500 trước Công nguyên để sản xuất ra đồng thau.
Những hiện vật lâu đời nhất có niên đại từ khoảng năm 2000 trước Công nguyên.
Cassiterite, dạng oxit thiếc của thiếc, rất có thể là nguồn thiếc ban đầu vào thời cổ đại.
Nhà khoa học người Anh Robert Boyle đã công bố mô tả về các thí nghiệm của ông về quá trình oxy hóa thiếc vào năm 1673.
Khi một thanh thiếc bị uốn cong, có thể nghe thấy tiếng kêu lách tách được gọi là tiếng kêu thiếc
Trạng thái vật chất
Rắn
Mật độ
7,287 g/cm3
Nhiệt độ nóng chảy
505,08 K | 231,93 °C | 449,47 °F
Nhiệt độ sôi
2875,15 K | 2602 °C | 4715,6 °F
Nhiệt lượng nóng chảy
7 kJ/mol
Nhiệt bay hơi
290 kJ/mol
Nhiệt dung
0,228 J/g·K
Hàm lượng trong vỏ trái đất
0,00022%
Hàm lượng trong vũ trụ
4×10-7%
Thiếc được dùng làm lớp phủ trên bề mặt các kim loại khác để chống ăn mòn.
Từ lâu, thiếc đã được dùng làm chất hàn dưới dạng hợp kim với chì.
Muối thiếc phun lên kính được dùng để tạo ra lớp phủ dẫn điện.
Thiếc clorua được dùng làm chất cắn màu trong nhuộm vải và để tăng trọng lượng của lụa.
Thiếc được coi là không độc hại nhưng hầu hết các muối thiếc đều độc hại