Từ tiếng La-tinh carbo, than
Cacbon được phát hiện ở thời tiền sử và được biết đến trong các dạng thù hình như bồ hóng và than trong các nền văn minh cổ xưa nhất của loài người.
Năm 1772, Antonie Lavoisier đã cho thấy rằng kim cương là một dạng thù hình của Cacbon; khi ông đốt cháy mẫu than và kim cương và thấy rằng nó không tạo ra nước.
Năm 1779, Carl Wilhelm Scheele cho thấy than chì bị đốt cháy tạo thành điôxít cacbon và do đó phải là một dạng thù hình của cacbon.
Khoảng 20% trọng lượng của sinh vật sống là cacbon
Trạng thái vật chất
Rắn
Mật độ
2,267 g/cm3
Nhiệt độ nóng chảy
3948,15 K | 3675 °C | 6647 °F
Nhiệt độ sôi
4300,15 K | 4027 °C | 7280,6 °F
Nhiệt lượng nóng chảy
105 kJ/mol
Nhiệt bay hơi
715 kJ/mol
Nhiệt dung
0,709 J/g·K
Hàm lượng trong vỏ trái đất
0,18%
Hàm lượng trong vũ trụ
0,5%
Bán kính nguyên tử
67 pm
Bán kính cộng hoá trị
77 pm
Độ âm điện
2,55 (Thang Pauling)
Năng lượng ion hóa
11,2603 eV
Nguyên tử khối
5,31 cm3/mol
Độ dẫn nhiệt
1,29 W/cm·K
Trạng thái ôxy hóa
-4, -3, -2, -1, 1, 2, 3, 4
Công dụng chính của carbon ngoài thực phẩm và gỗ là dưới dạng hydrocarbon, đáng chú ý nhất là khí mêtan trong nhiên liệu hóa thạch và dầu thô.
Than chì được sử dụng làm đầu bút chì, nồi nấu nhiệt độ cao, pin khô, điện cực và làm chất bôi trơn.
Kim cương được sử dụng trong đồ trang sức và trong công nghiệp để cắt, khoan, mài và đánh bóng.
Carbon đen được sử dụng làm chất tạo màu đen trong mực in.
Cacbon nguyên chất có độc tính cực kỳ thấp đối với con người và có thể được xử lý an toàn dưới dạng than chì hoặc than củi