Từ tiếng Hy Lạp oxys, axit, và genes, hình thành
Carl Wilhelm Scheele thu được ôxi bằng cách đun nóng oxit đồng và một hỗn hợp vài muối nitrat năm 1771, nhưng không công bố kết quả của mình cho đến năm 1777.
Joseph Priestley cũng chuẩn bị khí mới này năm 1774.
Tên Ôxi được đưa ra năm 1777 bởi Antoine Lavoisier, các thí nghiệm của ông với ôxi đã giúp loại trừ thuyết phlogiston về sự cháy và ăn mòn phổ biến vào thời đó.
Màu xanh lá cây và màu đỏ trong cực quang là do các nguyên tử oxy tạo ra
Trạng thái vật chất
Khí
Mật độ
0,001429 g/cm3
Nhiệt độ nóng chảy
54,36 K | -218,79 °C | -361,82 °F
Nhiệt độ sôi
90,2 K | -182,95 °C | -297,31 °F
Nhiệt lượng nóng chảy
0,222 kJ/mol
Nhiệt bay hơi
3,41 kJ/mol
Nhiệt dung
0,918 J/g·K
Hàm lượng trong vỏ trái đất
46%
Hàm lượng trong vũ trụ
1%
Oxy nguyên chất thường được sử dụng để hỗ trợ hô hấp cho những bệnh nhân mắc các bệnh về đường hô hấp.
Oxy được sử dụng trong hàn oxyacetylene, làm chất oxy hóa cho nhiên liệu tên lửa và trong sản xuất methanol và ethylene oxide.
Oxy cũng được sử dụng trong sản xuất thép, nhựa và dệt may.
Thực vật và động vật dựa vào oxy để hô hấp.
Khí oxy có thể gây độc ở áp suất riêng phần cao, dẫn đến co giật và các vấn đề sức khỏe khác